Trang chủ  » Văn hoá - Giáo dục - Khoa học  » Khoa học

Giải Nobel y sinh học phần lớn thuộc về người Mỹ


Theo Bách khoa thư mở Wikipedia thì Giải thưởng Nobel là một giải thưởng quốc tế được tổ chức hằng năm kể từ năm 1901 cho những cá nhân đạt thành tựu trong lĩnh vực vật lý, hoá học, y học, văn họchoà bình; đặc biệt là giải hoà bình có thể được trao cho tổ chức hay cho cá nhân. Vào năm 1968, Ngân hàng Thụy Điển đưa thêm vào một giải về lĩnh vực khoa học kinh tế để tưởng nhớ nhà khoa học Alfred Nobel, người đã sáng lập ra giải Nobel. Kết quả đoạt giải được công bố hằng năm vào tháng 10 và được trao (bao gồm tiền thưởng, một huy chương vàng và một giấy chứng nhận) vào ngày 10 tháng 12, ngày kỷ niệm ngày mất của Nobel. Giải Nobel được thừa nhận rộng rãi như là giải thưởng danh giá nhất một người có thể nhận được trong lĩnh vực được trao.Các giải Nobel không bắt buộc phải được trao hàng năm, nhưng ít nhất phải được trao một lần cho mỗi 5 năm. Giải, một khi đã trao rồi, không bao giờ bị tước. Giải Nobel được trao cho tối đa 3 người mỗi năm. Cho đến tháng 7-2008 trên thế giới đã có tới 789 cá nhân và 20 tổ chức được trao tặng giải thưopửng cao quý này. Chỉ có một người từ chối nhận giải thưởng Hòa Bình là đồng chí Lê Đức Thọ. Trong số 789 người được giải thưởng Nobel thì các học giả Mỹ chiếm đến 309 người, chiếm tỷ lệ đến

trong lĩnh vực Y sinh học (thường được gọi là lĩnh vực Sinh lý học và Y khoa ) thì các học giả Mỹ đã chiếm tỷ lệ cao nhất trong các học giả được nhận giải Nobel kể từ năm 1933 cho đến nay. Người đầu tiên là Thomas Hunt Morgan (1933) được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến vai trò của các nhiễm sắc thể trong di truyền. Năm 1934 là George Richards Minot, George Hoyt WhippleWilliam Parry Murphy được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến một số liệu pháp điều trị gan giúp chữa chứng thiếu máu. Năm 1936 là Otto Loewi được trao giải thưởng vì những phát hiện liên quan đến sự dẫn truyền hóa học của các xung thần kinh. Năm 1943 là Edward Adelbert Doisy được trao giải thưởng vì đã tìm ra bản chất hóa học của vitamin K..Năm 1944 là Joseph ErlangerHerbert Spencer Gasser được trao giải thưởng vì những khám phá về những chức năng biệt hóa cao của các sợi thần kinh đơn. Năm 1946 là Hermann Joseph Muller được trao giải thưởng vì đã khám phá ra cách tạo các đột biến bằng phương pháp chiếu xạ. Năm 1947 là Carl Ferdinand CoriGerty Cori được trao giải thưởng vì những khám phá về quá trình biến đổi glycogen dưới tác dụng của chất xúc tác.Năm 1950 là Philip Showalter Hench,Edward Calvin Kendall được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến các hormon của vỏ thượng thận, cấu trúc và tác dụng sinh học của chúng. Năm 1952 là Selman Waksman được trao giải thưởng vì đã tìm ra streptomycin, kháng sinh đầu tiên có tác dụng chống bệnh lao. Năm 1953 là Fritz Albert Lipmann được trao giải thưởng vì đã khám phá ra co-enzym A và tầm quan trọng của nó trong chuyển hóa trung gian. Năm 1954 là John Franklin Enders, Frederick Chapman Robbins
Thomas Huckle Weller được trao giải thưởng vì khám phá về khả nǎng nuôi cấy virus bệnh viêm tủy xám trên nhiều loại mô khác nhau. Năm 1956 là André Frédéric Cournand W. Richards được trao giải thưởng cho những khám phá liên quan đến sự thông tim và những thay đổi bệnh lý trong hệ tuần hoàn. Năm 1958 là George Wells BeadleEdward Lawrie Tatum được trao giải thưởng vì khám phá cho thấy gen hoạt động nhờ những hiện tượng hóa học xác định. Joshua Lederberg được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến sự tái tổ hợp di truyền và sự tổ chức các chất liệu di truyền của vi khuẩn. Năm 1959 là Severo OchoaArthur Kornberg được trao giải thưởng vì khám phá ra cơ chế tổng hợp sinh học của axít ribonucleicaxít deoxyribonucleic. Năm 1961 là Georg von Békésy được trao giải thưởng vì những khám phá về cơ chế vật lý của sự kích thích trong ốc tai. Năm 1962 là James Watson được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến cấu trúc phân tử của các axít nucleic và ý nghĩa của chúng đối với sự truyền thông tin trong chất liệu sống. Năm 1964 là Konrad Bloch được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến cơ chế điều hòa và chuyển hoá cholesterol cùng các axít béo. Năm 1966 là Francis Peyton Rous được trao giải thưởng vì những khám phá về các virus gây ra các khối u. Charles Brenton Huggins được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến sự điều trị ung thư tuyến tiền liệt bằng hormon. Năm 1967 là Haldan Keffer HartlineGeorge Wald được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến những quá trình hoá học và sinh lý học cơ bản của thị giác trong mắt. Năm 1968 là Robert W. Holley,Har Gobind Khorana (2 quốc tịch) và Marshall Warren Nirenberg được trao giải thưởng vì sự diễn giải về mã di truyền và chức nǎng của nó trong việc tổng hợp protein. Năm 1969 là Max Delbrück, Alfred HersheySalvador Luria (2 quốc tịch) được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến cơ chế sao nhân và cấu trúc gen của các virus. Năm 1970 là Julius Axelrod được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến các chất dẫn truyền dịch thể ở đầu mút dây thần kinh cùng các cơ chế lưu trữ, giải phóng và bất hoạt chúng. Năm 1971 là Earl Wilbur Sutherland, Jr. được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến cơ chế hoạt động của các hormon. Năm 1972 là Gerald Edelman được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến cấu trúc hóa học của các kháng thể. Năm 1974 là George Emil Palade được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến tổ chức cấu trúc và chức nǎng của tế bào. Năm 1975 là David Baltimore,Renato Dulbecco (2 quốc tịch) và Howard Martin Temin được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến sự tương tác giữa các virus khối u (tumor virus) và vật liệu di truyền của tế bào. Năm 1976 là Baruch Samuel BlumbergDaniel Carleton Gajdusek được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến những cơ chế mới về nguồn gốc và sự lây lan của các bệnh nhiễm khuẩn. Năm 1977 là Roger Guillemin (2 quốc tịch) Andrew Schally (2 quốc tịch) được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến sự sản xuất các hormone peptidenão. Rosalyn Sussman Yalow được trao giải thưởng vì đã triển khai thành công phương pháp miễn dịch dùng đánh dấu phóng xạ (Radioimmunoassay-RIA) đối với các hormone peptide. Năm 1978 là Daniel NathansHamilton O. Smith được trao giải thưởng vì đã phát hiện ra các enzym giới hạn và các cách áp dụng chúng để giải quyết các vấn đề trong di truyền học phân tử. Năm 1979 là Allan McLeod Cormack (2 quốc tịch) được trao giải thưởng vì đã triển khai kỹ thuật X-quang cắt lớp có sự hỗ trợ của máy tính. Năm 1980 là George Davis Snell được trao giải thưởng cho những khám phá về các cấu trúc xác định di truyền trên bề mặt tế bào có tác dụng điều chỉnh các phản ứng miễn dịch. Năm 1981 là Roger W. Sperry được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến sự chuyên biệt hóa chức năng của các bán cầu não..David H. Hubel được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến sự phân tích thông tin tại hệ thống thị giác. Năm 1983 là Barbara McClintock được trao giải thưởng vì đã phát hiện ra các yếu tố có khả năng di động (transposon). Năm 1985 là Michael Stuart BrownJoseph L. Goldstein được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến sự điều hòa quá trình chuyển hóa cholesterol. Năm 1986 Stanley CohenRita Levi-Montalcini (2 quốc tịch) được trao giải thưởng vì đã tìm ra các nhân tố tăng trưởng. Năm 1988 là Gertrude B. ElionGeorge H. Hitchings được trao giải thưởng vì đã khám phá ra các nguyên tắc quan trọng trong việc dùng thuốc điều trị bệnh. Năm 1989 là J. Michael BishopHarold E. Varmus được trao giải thưởng vì tìm ra nguồn gốc tế bào của các Gen sinh ung thư retroviral. Năm 1990 là Joseph E. MurrayE. Donnall Thomas được trao giải thưởng vì những khám phá của họ về cách ghép cơ quan và tế bào trong điều trị bệnh ở người. Năm 1992 là Edmond H. Fischer (2 quốc tịch) và Edwin G. Krebs được trao giải thưởng vì những khám phá về quá trình phospho hoá protein nghịch đảo như một cơ chế điều hòa sinh học. Năm 1993 là Phillip A. Sharp được trao giải thưởng vì những khám phá của họ về các gen tách (split genes). Năm 1994 là Alfred G. GilmanMartin Rodbell được trao giải thưởng vì đã phát hiện ra Protein G và vai trò của chúng trong sự truyền tín hiệu ở tế bào. Năm 1995 là Edward B. LewisEric F. Wieschaus được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến cách thức gen kiểm soát sự phát triển của bào thai trong giai đoạn đầu. Năm 1997 là Stanley B. Prusiner được trao giải thưởng vì đã phát hiện những loại nhỏ hơn virus có tính chất lây truyền, gọi là prion, là tác nhân gây bệnh truyền nhiễm mới . Năm 1998 là Robert F. Furchgott, Louis IgnarroFerid Murad được trao giải thưởng vì phát hiện ra oxít nitric như một phân tử tín hiệu trong hệ tim mạch. Năm 1999 là Günter Blobel (2 quốc tịch) được trao giải thưởng vì phát hiện ra protein mang những tín hiệu thiết yếu điều khiển sự chuyển vận và định vị của chúng trong tế bào. Năm 2000 là Paul GreengardEric Kandel (2 quốc tịch) được trao giải thưởng vì những nghiên cứu ủa họ về cơ chế truyền thông tin trong hệ thần kinh. Năm 2001 là Leland H. Hartwell được trao giải thưởng vì đã tìm ra các phân tử có vai trò then chốt kiểm soát chu kỳ tế bào. Năm 2002 là H. Robert Horvitz được trao giải thưởng vì những khám phá của họ về sự điều hòa di truyền trong sự phát triển tạng và sự chết của tế bào theo lập trình. Năm 2003 là Paul Lauterbur được trao giải thưởng vì những khám phá về kỹ thuật hình ảnh cộng hưởng từ (MRI). Năm 2004 là Richard AxelLinda B. Buck được trao giải thưởng vì các công trình nghiên cứu về các thụ thể mùi và tổ chức của hệ thống khứu giác. Năm 2006 là Andrew FireCraig Mello được trao giải thưởng vì đã khám phá ra kỹ thuật can thiệp ARN (RNA Interference) để khoá hoạt động của gene ở mức độ ARN thông tin. Năm 2007 Mario R. Capecchi (2 quốc tịch) và Oliver Smithies được trao giải thưởng vì đã khám phá ra kỹ thuật định hướng gene (gene targeting) gây biến đổi gene ở chuột bằng cách sử dụng các tế bào nguồn tạo phôi (ES cells). Năm 2008 vừa qua các học giả Mỹ không được giải mà là các học giả Đức và Pháp.

 

                                                                                                                             GS.TS. NGUYỄN LÂN DŨNG

In bài viết nàyIn bài viết