Trang chủ  » Đối ngoại nhân dân  » Kinh tế - Doanh nghiệp

TPP - Mừng to hay lo nhiều


Với việc 12 nước thành viên chuẩn bị ký kết Hiệp định vào đầu tháng 2/2016 tại New Zealand, có thể nói chúng ta ngày càng cảm nhận được rõ hơn sức nóng của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).

Tổng thống Obama từng khẳng định, "TPP không đơn thuần là nhằm tăng xuất khẩu giữa các nước trong khu vực châu Á -Thái Bình Dương mà là soạn ra các quy tắc của thương mại toàn cầu cho thế kỷ XXI".

Đối với Việt Nam, chỉ trong thời gian ngắn kể từ khi đàm phán TPP kết thúc vào ngày 5/10/2015 , dư luận trong nước đã trải qua những cung bậc cảm xúc khác nhau, thậm chí trái ngược. Ban đầu là sự vui mừng, phấn khích không chỉ trên các báo, trang mạng mà ngay cả trong giới nghiên cứu, học giả. Gần đây, ý kiến lo ngại xuất hiện nhiều hơn, thậm chí tỏ bi quan khi cho rằng: "Việt Nam gia nhập TPP: Thách thức còn nhiều hơn cơ hội".

Có lẽ chúng ta cần có cách nhìn nhận, đánh giá thận trọng, đa chiều và cân bằng hơn, không quá ảo tưởng về TPP, song cũng không nên quá bi quan vì suy cho cùng việc có tận dụng được cơ hội và giảm thiểu các thách thức hay không phụ thuộc vào chính chúng ta và sự chuẩn bị trong nước là yếu tố quan trọng, quyết định thành bại.

tpp mung to hay lo nhieu
 

Cú hích quan trọng

Trước hết, có thể khẳng định, tham gia TPP cùng với các FTA với các đối tác quan trọng khác là phù hợp với xu thế liên kết đa tầng nấc đang phát triển mạnh mẽ ở khu vực và trên thế giới. Trong quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, chính trị thế giới, đặc biệt kể từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu, các nước đều coi FTA là công cụ then chốt để vươn lên trở thành tâm điểm, đầu mối liên kết kinh tế và giành một vị trí thuận lợi trong cục diện đang định hình. Với chín FTA Việt Nam đã phê chuẩn và thực thi (*), một FTA vừa ký kết với Liên minh Kinh tế Á - Âu (5/2015) và kết thúc hai đàm phán quan trọng là TPP và FTA Việt Nam - Liên minh châu Âu (EU), lần lượt vào tháng 10 và 12/2015, cùng ba FTA đang đàm phán là Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), FTA song phương với Khối thương mại tự do châu Âu (EFTA) và FTA ASEAN - Hongkong, Việt Nam là một trong những nước đi đầu khu vực về liên kết kinh tế với mạng lưới FTA gồm 58 đối tác, trong đó có 15 nước G20, đóng góp gần 90% GDP toàn cầu và hơn 80% tổng thương mại thế giới.

TPP cùng với các FTA khác là thông điệp mạnh mẽ của Việt Nam với cộng đồng quốc tế về nỗ lực cải cách sâu rộng và chủ động, tích cực hội nhập toàn diện, góp phần tạo sự đan xen về lợi ích, mở rộng tiềm năng hợp tác, làm sâu sắc quan hệ giữa ta với các đối tác và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Đây cũng là "cú hích" quan trọng giúp Việt Nam đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng bền vững, hoàn thiện thể chế pháp lý và cơ chế kinh tế thị trường, tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thông thoáng, minh bạch và công bằng theo chuẩn mực quốc tế. Thực tiễn thế giới đã cho thấy, chưa có quốc gia nào thất bại do hội nhập.

Với mạng lưới FTA rộng lớn, các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội thuận lợi hơn trong nỗ lực đa dạng hóa thị trường xuất khẩu và nguồn cung nguyên vật liệu đầu vào, tránh bị phụ thuộc vào một thị trường. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như dệt may, giầy dép, nông thủy sản, đồ gỗ… sẽ có khả năng cạnh tranh cao hơn tại thị trường các nước đối tác do được hưởng ưu đãi. Đồng thời, có điều kiện tiếp cận nguồn vốn, công nghệ cao, kỹ năng quản lý tiên tiến từ các đối tác phát triển để có thể tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng và mạng sản xuất khu vực và toàn cầu, góp phần tạo thêm việc làm và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân.

Là một trong những thành viên sáng lập của Hiệp định TPP, Việt Nam có cơ hội chủ động tham gia xây dựng luật chơi chung thay vì gia nhập những cơ chế, hiệp định sẵn có và chấp nhận những luật lệ, quy định đã được định trước.

Trong quá trình đàm phán, Việt Nam đã phối hợp, thúc đẩy những quan tâm, lợi ích của mình trong tương quan lợi ích của các thành viên khác của TPP, nhất là các nước ASEAN. Việc hoàn tất TPP cũng góp phần tạo thêm thế cho Việt Nam và đẩy nhanh tiến trình đàm phán các thỏa thuận kinh tế - thương mại với các đối tác khác.

Cơ hội không đến tự nhiên

Điều hiển nhiên là cơ hội không tự nhiên có mà phải do chính chúng ta tự tìm kiếm và tạo ra. Trong khi đó, thách thức sẽ luôn tìm đến  dù chúng ta ngồi yên một chỗ. 

Với bước chuyển chậm về tư duy và năng lực cạnh tranh thấp như hiện nay, các doanh nghiệp của ta, như Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam Vũ Tiến Lộc từng ví von, không khác gì "đội thuyền thúng ra biển lớn". Chỉ đơn cử như việc đăng ký thương hiệu, mặc dù Việt Nam đã nếm nhiều bài học đắt giá từ việc mất thương hiệu, như cà phê Buôn Ma Thuột, kẹo dừa Bến Tre, cà phê Trung Nguyên hay bánh đậu xanh Hải Dương…, song thực tế tỷ lệ doanh nghiệp đăng ký bảo hộ nhãn hiệu còn rất thấp, trong khi thủ tục đăng ký khá đơn giản và lệ phí cũng không quá cao, chỉ khoảng 1,5 triệu đồng/nhóm hàng.

Cùng với đó, sức ép cạnh tranh sẽ ngày càng gia tăng, từ cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu về 0%, mở cửa thị trường dịch vụ và mua sắm chính phủ, xóa bỏ ưu đãi đối với doanh nghiệp nhà nước… Trong khi năng lực cạnh tranh và hội nhập còn hạn chế,   doanh nghiệp Việt Nam còn gặp phải nhiều rào cản như thuế, lệ phí... Đơn cử, một con gà phải cõng trên lưng đến 14 loại phí thì làm sao có thể cạnh tranh nổi   ở thị trường nội địa chứ nói gì đến thị trường các nước. Rất nhiều trường hợp đã cho thấy chính chúng ta tự làm khó mình trước khi gặp khó khăn từ phía các đối tác. Đây đang là lực cản lớn đối với sự phát triển của doanh nghiệp.

Tiếp đó là chất lượng nguồn nhân lực của các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp, thiếu đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn và tay nghề cao. Do đó, nếu không có sự chuẩn bị tốt, kể cả khi các luồng đầu tư đổ vào Việt Nam, chúng ta cũng khó có thể tận dụng được những cơ hội việc làm mà các FTA mang lại.

Đối với Chính phủ và các cơ quan hoạch định chính sách, thách thức đến từ sức ép hoàn thiện thể chế pháp lý để bảo đảm thực thi các cam kết trong TPP cũng như các FTA thế hệ mới khác. Chỉ tính riêng việc bảo đảm thực thi TPP, dự kiến Việt Nam sẽ phải sửa đổi, bổ sung hơn 50 và xây dựng mới khoảng gần mười văn bản quy phạm pháp luật, và cơ bản phải hoàn tất trong hai hoặc năm năm tới, nếu chúng ta muốn được hưởng ưu đãi ngay khi TPP có hiệu lực. Với năng lực xây dựng và hoàn thiện pháp luật như hiện nay, nếu không có quyết tâm và lộ trình cụ thể thì khó có thể hoàn thành mục tiêu quan trọng này.

Với việc nhiều loại thuế nhập khẩu sẽ về 0% và xóa bỏ dần thuế xuất khẩu theo cam kết trong TPP cũng như các FTA đã ký kết, ngân sách Nhà nước sẽ suy giảm đáng kể, gây khó khăn lớn cho công tác điều hành thu - chi của Nhà nước. Bên cạnh đó, Chính phủ sẽ phải đối mặt với nguy cơ bị các nhà đầu tư khởi kiện nếu áp dụng các chính sách, biện pháp phân biệt đối xử, vi phạm quy định trong TPP cũng như FTA Việt Nam - EU.

Thời gian không chờ đợi, để thành công, các doanh nghiệp cần đổi mới tư duy kinh doanh, coi trọng "chữ tín" và thương hiệu, đổi mới quy trình sản xuất, mẫu mã sản phẩm… để bảo đảm đáp ứng được các tiêu chuẩn của các FTA thế hệ mới. Bên cạnh đó, cần chú trọng hơn nữa các yếu tố phi kinh tế - thương mại như quy tắc xuất xứ, chỉ dẫn địa lý, kiểm dịch vệ sinh và an toàn động thực vật, các quy định về lao động và môi trường... Trước mắt và trong trung hạn, một số ngành có thể chịu tác động mạnh như nông nghiệp, dịch vụ tài chính, công nghiệp chế tạo, dược phẩm… Tuy nhiên, về dài hạn, sức ép này sẽ buộc các doanh nghiệp phải nâng cao năng lực cạnh tranh để tồn tại và phát triển trong điều kiện mới.

Sự thành hay bại của doanh nghiệp cũng có trách nhiệm không nhỏ của Chính phủ, đặc biệt là nỗ lực cải cách thể chế, pháp lý để tạo sân chơi minh bạch, bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân cũng như giữa doanh nghiệp nội địa và nước ngoài. Trong thời gian tới, các cơ quan Chính phủ cần chủ động nghiên cứu, áp dụng các hàng rào kỹ thuật phù hợp với quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và không trái với cam kết trong các FTA mà Việt Nam tham gia để bảo hộ thị trường trong nước. Cùng với đó là nâng cao năng lực và hiệu quả thực thi pháp luật, nhất là trong các lĩnh vực sở hữu trí tuệ, lao động và môi trường, tránh để các đối tác sử dụng các hàng rào kỹ thuật để vô hiệu hóa các ưu đãi về thuế quan dành cho các sản phẩm nhập khẩu từ Việt Nam.

Việt Nam là một nền kinh tế có xuất phát điểm thấp nhất trong số các thành viên TPP. Nếu không nhận biết, định lượng được những cơ hội, thách thức và có sự chuẩn bị quyết liệt, các doanh nghiệp của Việt Nam sẽ chỉ là "những người làm thuê trên mảnh đất màu mỡ của chính mình".

(*) Gồm Hiệp định khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA), năm FTA giữa ASEAN với sáu đối tác, Hiệp định Đối tác kinh tế với Nhật Bản (EPA), các FTA với Chile và Hàn Quốc. 

http://tgvn.com.vn/tpp-mung-to-hay-lo-nhieu-26297.html

In bài viết nàyIn bài viết